Tìm kiếm

Hỗ trợ trực tuyến

Hình Ảnh

Video

Thống kê

PHỤNG VỤ

TÁC VỤ THÁNH NHẠC

 

TÁC VỤ THÁNH NHẠC

Cần hiểu rõ có 2 loại thừa tác viên

- Các thừa tác viên có chức thánh thực thi việc phục vụ đặc biệt của mình qua việc giảng dạy, cử hành phụng vụ, v.v...

- Các thừa tác viên không có chức thánh được trao một số nhiệm vụ do các giám mục quy định theo các truyền thống phụng vụ và nhu cầu mục vụ: “người giúp lễ, đọc sách, dẫn giải và các ca viên cũng thật sự đảm nhận một tác vụ phụng vụ.[18] Cách riêng là tác vụ âm nhạc trong Phụng vụ.

Các tác viên thánh nhạc trước hết phải nắm vững vị trí, vai trò và nhiệm vụ của mình trong cử hành phụng vụ.

Vai trò thừa tác vụ âm nhạc trong Phụng vụ rất phong phú và đa dạng tùy theo tài năng của những anh chị em nhất là những người trẻ được mời gọi thể hiện ca hát trong cộng đoàn phụng vụ. Thật vậy, người ta có thể liệt kê những người sáng tác [composers], nếu không có họ sẽ không có những lời nguyện cầu được hát lên; những người thể hiện âm nhạc bao gồm ca đoàn [choir] (nam, nữ và thiếu nhi) mà tiếng hát của họ được hợp nhất nhờ người phụ trách chung về âm nhạc [music director] của giáo xứ, người chơi đàn đại quản cầm [organist] và ban nhạc, nhạc công [instrumentalists]; gần bàn thờ hơn có ca xướng viên [cantor] và vị chủ tế [the celebrant]; nhưng tác viên thể hiện âm nhạc quan trọng và nhiều nhất là chính cộng đoàn phụng vụ [congregation].

1. Tác viên phụ trách chung về thánh nhạc

Tác vụ này chắc chắn phải dành cho người chuyên nghiệp, có nhiều kinh nghiệm và kiến thức về nghi lễ Công giáo. Là người chuyên nghiệp, tác viên này cần phải có trình độ đại học âm nhạc và biết những gì mình có thể làm được một cách thông thạo. Thông thường người này sẽ điều khiển ca đoàn gồm những người trong giáo xứ với những khả năng khác nhau, có lẽ cũng cần có những ca sĩ chuyên nghiệp hỗ trợ. Tác viên âm nhạc này có bổn phận giúp ca đoàn thấm nhuần hiểu biết danh mục âm nhạc của Giáo hội, như một số nhạc cổ điển, ngay cả bình ca Latin, đa âm và chắc chắn phải có những bài hát mới hơn phù hợp với các Thánh lễ sử dụng tiếng bản địa. Nếu có nhóm nào hát các bài thánh ca mang âm hưởng dân tộc (dân ca) trong giáo xứ, thật là tốt nếu người phụ trách thánh nhạc hướng dẫn họ chọn bài thánh ca.

Người phụ trách chung về âm nhạc hay tác viên điều hành cũng phải quan tâm đến những bài thánh ca được chọn trong phụng vụ sao cho phù hợp với mùa phụng vụ và các bài đọc trong phần Phụng vụ Lời Chúa dựa trên các thẩm định về âm nhạc, phụng vụ và mục vụ như Hướng dẫn Mục vụ Thánh nhạc chỉ dạy.[19]

Ngày nay mỗi giáo phận, giáo xứ nên có người phụ trách chung về Thánh nhạc. Vị này sẽ cộng tác với giám mục hoặc cha xứ để kiểm tra chương trình hát, phối hợp và đôn đốc các anh chị em thực hiện chương trình đã đề ra về Thánh nhạc trong giáo xứ hoặc giáo phận. Vị phụ trách chung về Thánh nhạc thúc đẩy cộng đoàn phụng vụ tham gia tích cực và linh động trong việc ca hát; đồng hành với các anh chị em có nhiệm vụ chuẩn bị những bài thánh ca sẽ được hát trong các cử hành Phụng Vụ; giúp cộng đoàn luôn đi đúng với truyền thống đức tin của Hội Thánh, diễn tả được truyền thống đức tin ấy một cách hiệu quả với sự nhạy cảm mục vụ.

Vì mỗi tác vụ đều bắt nguồn từ các Bí Tích Khai Tâm, là những Bí Tích làm cho Dân Thiên Chúa nên “cộng đoàn các môn đệ được thiết lập do sứ vụ của Đức Kitô và vì sứ vụ ấy,” nên người phụ trách chung về Thánh nhạc có vai trò “tìm ra chỗ đứng của mình trong sự hiệp thông của Hội Thánh và phục vụ sứ mệnh của Đức Kitô trong Chúa Thánh Thần.”

Tác viên phụ trách Thánh nhạc giáo phận, giáo xứ cũng như các tác viên giáo dân khác trong Hội Thánh đều thi hành vai trò của mình trong mối tương quan với các vị giáo sĩ và cộng đoàn tín hữu. Người đặc trách Thánh nhạc giáo xứ (giáo phận) là những cộng tác viên của các giám mục, linh mục. Các ngài thi hành tác vụ mục vụ của mình do Bí Tích Truyền Chức Thánh, là Bí Tích làm cho các ngài nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, là Đầu, và thánh hiến các ngài trong một vai trò duy nhất và cần thiết cho sự hiệp thông của Hội Thánh. Các tác viên giáo dân trong Hội Thánh đều là những thành phần tín hữu giáo dân “chia sẻ vào chức tư tế chung của mọi người đã chịu Phép Rửa” và “được kêu gọi nên môn đệ Chúa.”[20]

2. Tác vụ của Ca đoàn và Ca xướng viên

Hai tác vụ này đóng một vai trò hết sức quan trọng giúp cho phụng vụ linh động.

Hiến chế Phụng vụ thánh (HCPV) nhắc nhở các Giám mục và mục tử coi sóc các linh hồn '“phải nỗ lực đào tạo các ca đoàn, nhất là tại các nhà thờ chính tòa.[21] Như vậy cần phải thành lập ca đoàn trong các giáo xứ lớn nhỏ và đào tạo các tác viên âm nhạc cho các ca đoàn.

Ca đoàn bao gồm những người được chọn ra từ cộng đoàn, vừa có khả năng âm nhạc cần thiết vừa biết hy sinh tập dượt theo thời khóa biểu cố định và sẵn sàng có mặt trong những cử hành phụng vụ. Vì vậy, họ có thể làm cho việc cử hành phụng vụ thêm phong phú bằng cách đóng góp những yếu tố âm nhạc mà khả năng của cộng đoàn chưa vươn tới được.[22]

Có thể chia thành từng nhóm nhỏ như Ban hát, Nhóm ca, Hội Ca vịnh (chỉ cần hai bè: nữ bổng, nữ trầm; nam bổng hay nam trầm, đồng giọng) hoặc đông hơn như Ca đoàn, Ban hợp xướng dị giọng (bốn bè: nữ bổng [soprano], nữ trầm [alto], nam bổng [tenor], nam trầm [basso], v.v... Cũng có thể quy tụ theo lứa tuổi (thiếu nhi, giới trẻ, các bà mẹ, các bậc trung niên,...) hoặc theo nhu cầu mục vụ (lễ dành cho thiếu nhi, cho giới trẻ hay người lớn).

Nhìn vào Tổng giáo phận Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh với trên 200 đơn vị giáo xứ và giáo điểm truyền giáo, con số ca đoàn chắc hẳn không dưới 1.000. Gần một nửa ca viên tham gia ở trong độ tuổi còn trẻ. Bởi vì đây là tác vụ âm nhạc được nhiều bạn trẻ yêu mến và tích cực đảm nhận.

Hầu hết các thành viên ca đoàn đảm nhận tác vụ ca viên hát bè được phân công theo giọng nam hay nữ, bổng hay trầm. Nhưng trong ca đoàn còn có một số anh chị em đảm nhận những tác vụ đặc biệt: ca trưởng, đệm đàn, người xướng thánh vịnh, đơn xướng viên (soloist), ca xướng viên (cantor).

Ca đoàn phục vụ bằng nhiều cách khác nhau. Việc phục vụ quan trọng của ca đoàn trong Thánh lễ là chia hai bè hát đối đáp với nhau hoặc với cộng đoàn; cũng có thể hát thêm bè hòa âm để làm phong phú tiếng hát của cộng đoàn. Trong kho tàng thánh nhạc, ca đoàn có thể chọn ra những tác phẩm do các nhạc sĩ thuộc nhiều thời kỳ khác nhau sáng tác theo nhiều phong cách âm nhạc khác nhau. Cũng có thể chọn những bài diễn tả đức tin của nhiều nền văn hóa khác nhau vốn là nét đa dạng phong phú của Hội Thánh. Những lúc thích hợp cho ca đoàn hát riêng là: bài ca trước Ca nhập lễ, Ca hiệp lễ. [23] Phần hát riêng của ca đoàn phải luôn hợp với phụng vụ; hoặc hát bản văn phụng vụ của đúng ngày lễ, hoặc hát bài có chủ đề sát với phụng vụ của ngày hôm ấy. Khi không hát riêng, ca đoàn cùng hát với cộng đoàn. Trong trường hợp này vai trò của ca đoàn không phải là hướng dẫn cộng đoàn hát, nhưng là cùng hát với cộng đoàn đang tự hát hoặc đang hát nương theo tiếng đàn.

Như mọi người khác đang góp phần việc của mình vào phụng vụ, các thành viên ca đoàn phục vụ với đức tin sáng ngời, và tham dự trọn vẹn cử hành phụng vụ, nhìn nhận mình là đội ngũ giúp việc trong phụng vụ và là thành viên của cộng đoàn được Chúa Kitô quy tụ.[24]

3. Tác vụ của Ca xướng viên (cantor)

Ca xướng viên vừa là người hát vừa là người hướng dẫn cộng đoàn hát. Nhất là khi không có ca đoàn, ca xướng viên có thể hát đối đáp với cộng đoàn. Thí dụ, ca xướng viên có thể bắt hát Kinh Xin Chúa Thương Xót, Lời mời gọi theo mẫu thứ ba của nghi thức thống hối, Kinh Vinh Danh và Alleluia, giúp cộng đoàn hát những câu tung hô ngắn khi kết thúc các bài đọc, hát câu Tung hô trước Tin Mừng, hát Ỷ nguyện trong Lời nguyện chung, hát Kinh Lạy Chiên Thiên Chúa. Ca xướng viên cũng có thể hát những câu xướng trong Thánh vịnh đáp ca, Ca nhập lễ, khi Chuẩn bị lễ vật, và khi Rước lễ.

Là người hướng dẫn cộng đoàn hát, ca xướng viên nên tham gia ca hát với toàn thể cộng đoàn. Để điều khiển việc ca hát của cộng đoàn phụng vụ, ca xướng viên không được để giọng hát của mình lấn át cộng đoàn. Lúc chuyển nhạc hay chuyển đoạn bài hát, ca xướng viên có thể hát lớn hơn để khơi dậy và dẫn dắt cộng đoàn ca hát khi tiếng hát của họ yếu ớt. Tuy nhiên, khi cộng đoàn đã cất cao tiếng hát, thì ca xướng viên phải biết cách giảm bớt âm lượng giọng hát của mình cho phù hợp. Nhiều lúc, có thể sử dụng một cử chỉ nhã nhặn mời gọi cộng đoàn tham gia ca hát và ra hiệu khởi tấu thật rõ ràng cho cộng đoàn bắt đầu, nhưng chỉ sử dụng cử chỉ cách dè dặt và khi thật cần thiết.

Khi hướng dẫn cộng đoàn, ca xướng viên nên đứng ở vị trí để mọi người nhìn thấy, nhưng không làm cho họ mất tập trung vào các hành vi phụng vụ đang diễn ra. Tuy nhiên, khi cộng đoàn đang hát những câu đối đáp hay những câu tung hô hoặc những bài ca quá quen thuộc rồi mà trong đó không có những câu hát dành riêng cho ca xướng viên, thì ca xướng viên nên lánh mặt đi.

Ca xướng viên thi hành tác vụ của mình tại một vị trí thuận tiện nhưng không phải ở tại giảng đài.[25]

4. Tác viên xướng thánh vịnh

 

Người xướng thánh vịnh là người đọc hoặc hát câu xướng của bài Đáp ca sau Bài đọc I và giúp cộng đoàn hát hoặc đọc câu đáp. Khi cần thiết, người xướng thánh vịnh cũng có thể xướng Tung hô Tin Mừng cho cộng đoàn hát theo hoặc đọc hay hát câu Tung hô trước Tin Mừng. Mặc dầu phận vụ đọc hay hát câu Tung hô này phân biệt với vai trò của người hát thánh vịnh, nhưng đôi khi cả hai nhiệm vụ này đều được ủy thác cho cùng một người.

Những ai được giao cho nhiệm vụ xướng (hoặc hát) thánh vịnh cần phải “biết ca hát, có khả năng phát âm và đọc cho đúng.”[26] Là người công bố Lời Chúa, người xướng thánh vịnh cần có khả năng xướng (hát hoặc đọc thánh vịnh một cách rõ ràng, tự tin, và truyền cảm đối với bản văn, bản nhạc và những người đang lắng nghe.

Người xướng thánh vịnh hát những câu xướng của Thánh vịnh đáp ca tại giảng đài.[27]

5. Tác vụ của các Nhạc công

Nhạc công đại phong cầm, các nhạc công các nhạc cụ, nhạc khí khác và nhạc công của ban nhạc cũng có một vai trò quan trọng, mặc dầu thứ yếu trong tác vụ âm nhạc. Sau khi CĐ Vat. II canh tân phụng vụ, các cử hành phụng vụ (nhất là thánh lễ), thời gian dành cho việc gian tấu và đơn tấu của các nhạc cụ, nhạc khí giảm thiểu rất nhiều.

Tuy nhiên, các tác viên đại phong cầm, nhạc cụ, nhạc khí khác và ban nhạc có nhiệm vụ trước tiên là dẫn và nâng đỡ tiếng hát của cộng đoàn, ca đoàn và tác viên xướng thánh vịnh. Vì thế, không được để tiếng nhạc lấn át tiếng hát, không đệm đàn khi chủ tế đang đọc hay hát.

Do có nhiều âm sắc khác nhau và có nhiều khả năng biểu đạt, đại phong cầm và ban nhạc làm cho tiếng hát của cộng đoàn thêm phần phong phú và hoa mỹ hơn, nhất là khi có sự góp mặt của kỹ thuật hòa âm.

Nếu có được các nhạc công tài giỏi và được đào tạo đầy đủ, nên khuyến khích họ tiếp tục truyền thống ứng tấu trong phụng vụ. Có những giây phút cần đến tiếng nhạc ứng tấu, ví dụ khi cộng đoàn đã hát xong mà nghi tiết phụng vụ chưa hoàn tất. Nghệ thuật ứng tấu đòi hỏi nhạc công phải có khả năng đặc biệt và được huấn luyện ở trường lớp. Tiếng nhạc ứng tấu không phải chỉ nhằm mục đích lấp đầy khoảng trống chờ đợi. Nếu không thể ứng tấu cho xứng hợp, nhạc công nên diễn tấu những bản đàn in sẵn, từ dễ đến khó, trong các tập nhạc có giá trị.

Có những thời điểm đại phong cầm hoặc các nhạc cụ khác được phép diễn tấu riêng, như dạo nhạc mở đầu trước khi Nhập lễ, đệm nhạc cho toàn bộ phần Chuẩn bị lễ vật, tấu nhạc khi kết lễ thay thế bài hát Kết lễ, hoặc diễn nhạc kết sau khi bài hát đã được hát xong, trong những mùa phụng vụ và những ngày lễ cho phép dạo đàn.[28]

6. Tác vụ âm nhạc của chủ tế

Rõ ràng từ khi thực thi Hiến chế về Phụng vụ thánh của CĐ Vat. II, cả chủ tế và cộng đoàn phụng vụ đều có vai trò phải đảm nhận trong tác vụ âm nhạc. Từ ngàn xưa linh mục nắm giữ phần chính yếu trong việc hát một mình “cung chủ tế”. Công đồng không miễn trừ chủ tế (giám mục hoặc linh mục) khỏi phận vụ này (nhất là các linh mục trẻ).

Người có ảnh hưởng nhiều nhất đến cộng đoàn Phụng Vụ là vị linh mục chủ sự, ngài “cầu nguyện nhân danh Hội thánh và cộng đoàn được quy tụ.”1 “Khi cử hành Thánh Lễ... ngài phải phục vụ Thiên Chúa và giáo dân cách trang nghiêm và khiêm tốn, trong cách cử hành và đọc lời Chúa, ngài còn phải lo cho giáo dân cảm thấy sự hiện diện sống động của Đức Kitô.”[29] [30]

Không bao giờ quá lời khi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc linh mục tham gia tích cực vào Phụng Vụ, nhất là bằng lời ca tiếng hát. Linh mục hát những lời nguyện dành cho chủ sự và những phần đối đáp (giữa linh mục và cộng đoàn) trong Phụng Vụ tùy theo khả năng của ngài.[31] Khi hát chung với cộng đoàn, linh mục nêu gương khuyến khích cộng đoàn đem lời ca tiếng hát tham gia vào Phụng Vụ. “Nhưng., nếu linh mục hay thừa tác viên không thể hát đúng, thì vị đó có thể đọc mà không hát những bài phải hát, nếu bài ấy quá khó, nhưng phải đọc lớn tiếng và rõ ràng. Tuy nhiên, linh mục hay thừa tác viên không được đọc thay vì hát chỉ vì muốn tiện cho mình.”[32]

Linh mục hát với cộng đoàn những phần chung cho cả cộng đoàn (câu tung hô, điệp xướng, ca vịnh và những bài ca Phụng Vụ). Tuy nhiên, linh mục không hát chung với cộng đoàn câu Tung hô Tưởng niệm (sau khi truyền phép) hay lời đáp AMEN long trọng (sau Vinh tụng ca kết thúc Kinh Nguyện Thánh Thể). Ngài nên lưu tâm đến ca xướng viên và người hát thánh vịnh khi họ hướng dẫn cộng đoàn ca hát. Để khuyến khích cộng đoàn hát chung, linh mục và ca xướng viên không nên để tiếng của mình lấn át tiếng cộng đoàn, cũng không nên hát câu thưa của cộng đoàn trong phần đối đáp.[33]

7. Cộng đoàn phụng vụ là tác viên âm nhạc chính

“Trong khi cử hành Thánh Lễ, các tín hữu hợp thành dân thánh, dân thuộc về Thiên Chúa, dân hoàng tộc chuyên lo tế tự để tạ ơn Thiên Chúa, dâng lên Ngài lễ phẩm tinh tuyền không những nhờ tay vị tư tế, nhưng còn cùng với ngài, và để học cho biết dâng chính mình nữa.[34] Đây là nền tảng để các tín hữu “tham dự trọn vẹn, tích cực và có ý thức”. Chính căn tính của Phụng Vụ đòi hỏi sự tham dự như thế.[35]

Bởi vì cộng đoàn phụng vụ khi được quy tụ sẽ làm thành một thân thể, nên mỗi một thành viên phải tránh “mọi hình thức sống cá nhân và riêng rẽ, họ phải nhớ rằng họ chỉ có một Cha trên trời và như vậy mọi người đều là anh chị em với nhau.”[36]

Ca hát là một trong những cách thế hàng đầu giúp cộng đoàn tín hữu tham gia cách tích cực vào Phụng Vụ. Cha xứ có nhiệm vụ khuyến khích giáo dân “tham gia vào những lời tung hô, những câu đối đáp, những bài ca vịnh, đối ca và thánh ca..."[37] Huấn luyện việc ca hát cho cộng đoàn phải là mối quan tâm liên tục để giúp mọi người tham dự cách trọn vẹn, tích cực và có ý thức.

Để toàn thể dân thánh đều lên tiếng hát, âm nhạc phải hợp với khả năng của họ. Một số cộng đoàn lĩnh hội rất nhanh và muốn thay đổi nhiều thể loại để hát. Một số cộng đoàn khác cảm thấy thoải mái hơn với một số bài hát cố định, để khi hát thì hát dễ dàng. Một tuyển tập những bài ca phụng vụ quen thuộc với nội dung thần học phong phú có thể giúp cộng đoàn đào sâu đức tin nhờ hát đi hát lại đến thuộc lòng. Phải biết thẩm định về mục vụ để thích ứng với mọi trường hợp.[38]

Để đáp ứng yêu cầu có một tuyển tập những bài ca phụng vụ, trong 10 năm vừa qua, ủy ban Thánh nhạc trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam đã tuyển chọn và san định những bài thánh ca đã đi vào lòng người Công giáo Việt Nam, kể từ khi có nền thánh nhạc Việt Nam (1930) cho đến nay: Tuyển tập Thánh Ca Việt Nam, quyển 1 và 2 (hơn 1.000 bài).

Ngày nay ở các cộng đoàn giáo xứ, giới trẻ đều có những trình độ âm nhạc nhất định và thích được hát. Nhờ đó các mục tử nên lưu ý đến khả năng này của cộng đoàn mình coi sóc: một cộng đoàn ca hát. Đó cũng là cách duy nhất cảm nhận được niềm vui thấm nhập cộng đoàn Chúa nhật qua thái độ say sưa ca hát.

8. Tác viên là ca trưởng thánh nhạc

Hiện nay, trong Tổng giáo phận Sài Gòn, các tác viên ca trưởng vừa chuyên nghiệp vừa không chuyên nghiệp (không chuyên nghiệp chiếm phần hơn vì nhu cầu mục vụ của cộng đoàn phải có người tập hát và đánh nhịp), trong số ấy giới trẻ chiếm hơn một nửa.

Ở Việt Nam, tác viên là ca trưởng có một vai trò rất đặc biệt không chỉ với ca đoàn mà cả cộng đoàn phụng vụ. Tác viên ca trưởng là người điều khiển việc thể hiện âm nhạc trong phụng vụ nên có trách nhiệm lớn hơn, từ phần huấn luyện chuyên môn cho ca viên, đến phần chọn bài cho phù hợp với tiêu chuẩn của thánh nhạc, dọn bài để tập hát cho ca đoàn và cộng đoàn, cuối cùng là điều khiển cộng đoàn hoặc ca đoàn trong cử hành phụng vụ (ví dụ: Thánh lễ). Ngoài ra còn phải phối hợp chặt chẽ với các người lo các phần việc khác, như QCTQ số 111 đòi hỏi: “Tất cả những người có nhiệm vụ, hoặc về nghi thức, hoặc về mục vụ và âm nhạc, phải đồng tâm nhất trí với nhau để chuẩn bị cách thiết thực cho cuộc cử hành phụng vụ, dưới sự điều khiển của vị quản thủ thánh đường. Cũng phải nghe ý kiến các tín hữu trong những gì trực tiếp liên quan đến họ.”

Để đảm nhận tác vụ CA TRƯỞNG THÁNH NHẠC, tác viên cần học biết về phụng vụ; hiểu biết cặn kẽ và áp dụng cách sáng tạo những hướng dẫn (Hiến chế về phụng vụ thánh, các Thông điệp, các Huấn thị, v.v...) của Giáo Hội về âm nhạc phụng vụ, thông thạo khả năng chuyên môn như nhạc lý, ký xướng âm, hòa âm, điều khiển hợp xướng, đệm đàn cơ bản (organ hoặc piano).[39]

Nhằm mục đích trang bị cho bạn trẻ muốn tham gia ca đoàn và đảm nhận tác vụ ca trưởng, ủy ban Thánh nhạc trực thuộc HĐGMVN và Học viện Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Sài Gòn đã mở các lớp nhạc và thánh nhạc từ năm 2006 cho đến nay.

Chương trình đào tạo và huấn luyện được chia thành các cấp lớp (từ thấp lên cao): Nhạc lý ký xướng âm (1,2,3), thanh nhạc (1,2,3), đệm đàn cơ bản, đệm đàn trong phụng vụ, hòa âm, phân tích hòa âm, bình ca, đánh nhịp, phác họa tiết tấu, điều khiển hợp xướng và thánh nhạc trong phụng vụ.[40]

9. Nhạc sĩ sáng tác thánh ca xứng đáng là tác viên âm nhạc trong Phụng vụ

Trong cử hành phụng vụ (thánh lễ) khi bài thánh ca được tấu lên để làm vinh danh Chúa và thánh hóa các tín hữu, người ta thường quan tâm đến ca đoàn, ca trưởng, người hát thánh vịnh đáp ca, người đơn ca hay ca xướng viên mà ít ai nhớ đến tác giả của những bài thánh ca đó.

Nhờ có những nhạc sĩ sáng tác những tác phẩm thánh ca mà “truyền thống âm nhạc của toàn thể Giáo Hội đã làm thành một kho tàng vô giá, nổi bật giữa các phong cách nghệ thuật khác...”[41] Trong kho tàng đó, Giáo Hội nhìn nhận bình ca là lối hát riêng của Phụng vụ Rôma.[42]

Có thể ghi nhận một vài nét đặc trưng của bình ca như sau:

- Xây dựng giai điệu trên một phách cơ bản, nên một vần trong một chữ của bản văn La Tinh đều có một thời gian tối thiểu để phát âm, giúp người nghe lãnh hội được.

- Hình thành các âm theo độ dài ngắn của bản văn. Không lệ thuộc luật cân phương hay cân đối của nhiều loại nhạc thời đó.

- Toàn bài xây dựng theo một tổng thể duy nhất, được hình thành theo ý nghĩa của bản văn, theo đúng vai trò và vị trí của từng chữ trong câu, từng dấu nhấn trong mỗi chữ.

Chính vì thế, bình ca được coi là bản dịch của bản văn, vì nhờ âm nhạc, ý nghĩa của lời ca được chuyển tải tới người nghe cách thâm sâu hơn.

Trong Thông điệp kỷ luật thánh nhạc, Đức Piô XII đã ghi nhận: “Sự thánh thiện là biểu hiện rực rỡ nhất của thánh ca Grêgôriô, từng được sử dụng trong Hội Thánh từ bao thế kỷ, và người ta có thể gọi đó là sản nghiệp của Hội Thánh. Quả thật, bởi các giai điệu của loại thánh ca này mật thiết hoà hợp với bản văn thánh, nên chẳng những ăn khớp với các ngôn từ cách chặt chẽ, mà còn giống như một bản dịch ý nghĩa và dẫn giải, đồng thời làm cho vẻ hấp dẫn của ngôn từ thâm nhập tâm hồn các thính giả (số 41).”

Vì thế “các nhạc sĩ đã được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo hãy ý thức rằng mình được mời gọi thực thi trau dồi và phát triển kho tàng thánh nhạc. Hãy sáng tác những bài ca có cung điệu thực sự mang tính thánh nhạc, không chỉ dành cho các ca đoàn lớn nhưng còn thích hợp cả với những ca đoàn nhỏ, hỗ trợ nhiều cho sự tham dự tích cực của toàn thể cộng đoàn tín hữuLời thánh ca phải thích hợp với giáo thuyết công giáo và tốt hơn hết là rút ra từ Thánh Kinh và các nguồn mạch phụng vụ.[43]

Như vậy, các nhạc sĩ thánh nhạc thực thụ phải thấm nhuần tinh thần Kitô giáo với những tố chất mà HĐGMVN đã vạch ra như sau:

Hội Thánh cần đến các nhạc sĩ và các nhạc sĩ cần đến Hội Thánh. Trong mọi thời đại, Hội Thánh đã kêu gọi các nhạc sĩ sáng tác đưa ra những tác phẩm mới để làm phong phú kho tàng Thánh nhạc. Ngày nay, Thiên Chúa vẫn tiếp tục thổi Thần Khí sáng tạo của Người để làm cao quý và đa dạng hơn tác phẩm từ bàn tay và tâm trí của các nhạc sĩ.

Hội Thánh đã giữ gìn và tôn vinh những cách diễn tả này trong nhiều thế kỷ. Trong thời chúng ta, Hội Thánh tiếp tục mong muốn mang đến cả những cái mới và cũ.[44] Hội Thánh vui mừng thúc giục các nhà sáng tác và các nhà soạn lời sử dụng tài năng đặc biệt của mình hầu Hội Thánh có thể tiếp tục làm tăng thêm kho tàng nghệ thuật Thánh Nhạc.

Hội Thánh không ngừng tìm kiếm những cách thức mới để ca ngợi tình yêu dâng lên Thiên Chúa. Qua những hoạt động và lời cầu nguyện, chính Phụng Vụ thánh làm cho mọi người nhận biết những hình thức liên quan đến những sáng tác mới. Các nhạc sĩ tìm được cảm hứng của mình nơi Thánh Kinh, và đặc biệt nơi các bản văn Phụng Vụ, để những tác phẩm của họ tuôn tràn từ chính Phụng Vụ. Hơn nữa, thật thích hợp để sử dụng trong Phụng Vụ, một bản văn được hát lên không phải chỉ đúng về giáo thuyết, mà tự bản văn phải là cách diễn tả đức tin công giáo. Vì thế, những bài hát trong Phụng Vụ không bao giờ được phép có những lời lẽ khẳng định về đức tin không đúng hay sai lạc. Chỉ trong bầu khí Kinh Thánh, Phụng Vụ và tôn giáo, người sáng tác là người ý thức được hành trình lâu dài của Hội Thánh qua dòng lịch sử con người, và là người đắm mình trong cảm thức của Hội Thánh (sensus Ecclesiae). Họ được trang bị một cách thích đáng để nhận biết và diễn tả bằng giai điệu chân lý của Mầu nhiệm được cử hành trong Phụng Vụ. Thể loại âm nhạc không quan trọng, nhưng chính vẻ đẹp phụng vụ phát xuất trực tiếp từ chính mầu nhiệm và thông qua tài năng của người sáng tác được nổi bật lên khi Dân Chúa quy tụ ca hát.

Nhiều năm qua, ngay sau khi Công đồng Vaticanô II cải cách phụng vụ, đặc biệt cho phép sử dụng ngôn ngữ của bản xứ, các nhạc sĩ và các nhà xuất bản đã hoạt động để cung cấp danh mục những bài thánh ca mới cho nền Thánh Nhạc Việt Nam. Trong những thập niên qua, nỗ lực này đã lớn mạnh và định hình một nền Thánh Nhạc tiếng Việt có giá trị tiếp tục phát triển, cho dù có nhiều bài thánh ca Việt Nam tiên khởi đã rơi vào quên lãng. Ngày nay, các nhạc sĩ sáng tác vẫn tiếp tục phục vụ Hội Thánh và được khích lệ tập trung đem hết khả năng và tài nghệ để sáng tác những tác phẩm Thánh Nhạc hoàn hảo bằng mọi thể loại âm nhạc, nhất là đem những đặc tính nhạc cổ truyền và dân tộc vào trong các sáng tác mới, hầu hình thành dần nền Thánh Nhạc đậm nét dân tộc Việt Nam.

Hội Thánh ước mong nền thánh ca ngày càng được phong phú hơn để phục vụ cộng đoàn được quy tụ. “Đức tin của vô số các tín hữu đã được những giai điệu nuôi dưỡng, những giai điệu tuôn tràn từ trái tim của các tín hữu khác, và cũng được đưa vào Phụng Vụ hoặc được sử dụng như là một trợ giúp cho việc thờ phượng trang nghiêm. Trong ca hát, đức tin được cảm nghiệm như một niềm vui sống động, một tình yêu thương, và lòng mong đợi phó thác vào sự can thiệp cứu độ của Thiên Chúa.[45]

Nói chung, các bài thánh ca phải được thể hiện bởi các nghệ sĩ (nhạc sĩ sáng tác, ca sĩ, ca viên ...) Kitô giáo chân chính với đời sống xứng danh Kitô hữu (có đức tin và sống đức tin), trong tinh thần cầu nguyện (bài hát phải được viết khi nhạc sĩ cầu nguyện,[46] phải được hát lên trong tâm tình cầu nguyện, vì không ai có thể cho cái mình không có [47]), có khả năng chuyên môn (hồng ân âm nhạc Chúa ban: có thể có nơi người này mà không nơi người khác; phong phú nơi người này mà nghèo nàn nơi người khác).

Tác viên nhạc sĩ sáng tác phải tuân thủ những quy tắc chuẩn nhận các bài thánh ca (imprimatur).[48]

Xem NGƯỜI TRẺ ĐẢM NHẬN TÁC VỤ ÂM NHẠC TRONG CỬ HÀNH PHỤNG VỤ - Lm. Rôcô Nguyễn Duy - 

nguồn : https://www.hdgmvietnam.com

Tin liên quan